Biển Đông gần đây lại dậy sóng vì những hành động khiêu khích của Trung Quốc giữa mùa dịch Cúm Vũ Hán, và đang có nhiều tin đồn rằng Hà Nội đang cân nhắc giải pháp cho Hoa Kỳ thuê dài hạn Vịnh Cam Ranh hoặc một đảo nào đó ở Biển Đông để làm căn cứ, nhằm đối trọng với các hành động gây hấn dồn dập của Trung Quốc gần đây. Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Úc/Đại học New South Wales, một chuyên gia về các vấn đề Việt Nam, phân tích chính sách của Việt Nam và của Hoa Kỳ, xem liệu các diễn biến phức tạp ở Biển Đông có đủ nghiêm trọng để lãnh đạo VN phải sửa đổi chính sách quốc phòng và cân nhắc việc dùng “con bài chủ”, cho thuê cảng Cam Ranh?
Cam Ranh là một trong các cảng nước sâu tốt nhất trong vùng, có tầm quan trọng chiến lược đối với Đông Nam Á, và khu vực Châu Á-Thái Bình Dương-Ấn Độ Dương.
Một bài báo trên tờ National Interest từng nói rằng căn cứ Cam Ranh có thể thay đổi cục diện Biển Đông, và Việt Nam nắm trong tay con bài chiến lược, có thể quyết định chọn nước nào trong các đại cường đang nhòm ngó an ninh khu vực để cho thuê cảng Cam Ranh.
Trong một bài viết đăng trên báo The Diplomat hôm 6/5/2020, chuyên gia về các vấn đề Việt Nam, Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc Phòng Úc, đặt câu hỏi liệu tin đồn vừa kể có cơ sở hay không?
Hiệp ước phòng thủ chung giữa Hoa Kỳ và Philippines đã có từ năm 1951, cho phép quân đội Mỹ hiện diện tại các căn cứ chiến lược của Philippines.
Tình hình Biển Đông có lẽ đã khác đi nếu người Mỹ không rút ra khỏi lãnh thổ Philippines vào đầu thập niên 1990, vì những mâu thuẫn dẫn tới việc đàm phán lại Hiệp ước phòng thủ chung (MDT), khiến Mỹ rút ra khỏi Philippines.
Sự vắng mặt của Mỹ trong khu vực từ đó, đã tạo chỗ trống cho phép Trung Quốc bành trướng và mở rộng phạm vi ảnh hưởng, để cuối cùng trở thành một mối đe dọa đối với các nước nhỏ hơn trong khu vực.
Vì mối đe dọa này, Manila đề xuất một thỏa thuận cho phép quân đội Mỹ “tạm thời” có mặt tại Philippines, dẫn tới Hiệp Ước Thăm Viếng Quân Sự với Mỹ (VFA) năm 1998, và sau đó Thỏa thuận Hợp tác Quốc phòng Tăng cường (EDCA) giữa Manila và Washington năm 2014.
Tuy nhiên, loan báo của Tổng thống Philippines Duterte sẽ chấm dứt Hiệp Ước Thăm Viếng Quân Sự với Mỹ sẽ tác động tới EDCA bởi vì khó có chuyện người Mỹ sẽ tiếp tục hoạt động và hỗ trợ Philippines nếu nhân sự của họ không được bảo vệ theo các điều khoản ghi trong thỏa thuận VFA.
Những khúc mắc trong quan hệ hai nước và chính sách bất nhất của TT Duterte đã buộc người Mỹ xoay sang các nước láng giềng, và trong bối cảnh đó, các cơ sở tại Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn đối với Hoa Kỳ, dẫn tới nhiều đồn đoán cho rằng Hà Nội đang cân nhắc việc cho Hoa Kỳ thuê dài hạn Vịnh Cam Ranh hoặc một vài đảo ở Biển Đông.
Giáo sư Carlyle Thayer nói khả năng này bị hạn chế bởi chính sách « Ba Không » của Việt Nam, ngăn cấm việc cho thuê cảng Cam Ranh hay các đảo đá ở Biển Đông.
Chính sách đối ngoại và quốc phòng của VN dựa trên nguyên tắc Ba Không đã được ghi trong Sách trắng Quốc phòng đầu tiên của VN vào năm 1998. Nguyên tắc Ba Không gồm: “Không liên minh quân sự với nước nào, Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam, và Không về phe nước nào chống lại một nước khác.”
Chính sách này được Hà Nội tái khẳng định nhiều lần. Sách trắng Quốc phòng mới nhất, công bố vào cuối năm 2019, đổi chính sách Ba không thành Bốn Không:
“Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”.
Giáo sư Thayer nói như vậy nếu chỉ dựa trên nguyên tắc Ba Không, thì chính sách quốc phòng của Việt Nam ngăn cấm việc cho Hoa Kỳ hoặc bất kỳ nước nào khác, thuê Vịnh Cam Ranh hay các đảo trên Biển Đông.
Nhưng GS Thayer lưu ý rằng Sách Trắng Quốc phòng năm 2019 gợi lên triển vọng Việt Nam có thể cứu xét sửa đổi chính sách Ba Không. Các đoạn sau đây đã thu hút nhiều chú ý:
“Việt Nam sẽ tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung”.
Và,
“Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế.”
Việt Nam chiếm từ 49 đến 51 tiền đồn trên Biển Đông, trải rộng trên 27 thực thể tại quần đảo Trường Sa, theo Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và quốc tế tại Washington.
Năm 2009, Thủ tướng Việt Nam thời đó, ông Nguyễn Tấn Dũng, loan báo các cơ sở thương mại bảo trì, sửa chữa tàu của Việt Nam tại Cảng Cam Ranh sẽ mở cửa đón các tàu hải quân của thế giới. Hoa Kỳ là nước đầu tiên nhận lời mời, đưa tàu USNS Safeguard tới cảng Sài Gòn vào tháng 9/2009.
Năm 2010, Hoa Kỳ và VN ký hợp đồng để sửa chữa và bảo trì các tàu hải quân Mỹ.
Theo GS Thayer, từ hơn một thập niên nay, số tầu chiến Mỹ cập cảng Việt Nam để viếng thăm chính thức, hoặc để bảo trì, sửa chữa ngày càng nhiều.
Cảng Cam Ranh gồm một cảng quân sự và một cảng dân sự. Cảng Quốc tế Cam Ranh, cảng dân sự, chính thức đi vào hoạt động vào tháng Ba năm 2016.
Tàu hải quân đầu tiên của Mỹ trở lại Cam Ranh là tàu tiếp liệu đạn dược của Hạm đội 7, chiếc USNS Richard E. Byrd, ghé Việt Nam vào tháng 8-2011.
Trong năm 2016, có tới 3 tàu chiến Mỹ ghé Cảng dân sự Cam Ranh gồm: USS John McCain, USS Frank cable và chiếc USS Mustin.
Hoa Kỳ từ lâu chủ trương dàn xếp các “điểm tiếp nhận chứ không lập căn cứ” dựa trên lập luận rằng căn cứ có vị trí cố định, dễ là mục tiêu bị tấn công, trong khi điểm tiếp nhận cho phép Hoa Kỳ tiếp cận các cơ sở đó vào những thời khắc quan trọng như thảm họa thiên nhiên hay một cuộc khủng hoảng nào đó. Cho nên theo GS Thayer, có khả năng Hoa Kỳ sẽ điều đình với phía VN để cho phép các tầu chiến của Mỹ được thường xuyên cập cảng Việt Nam, hơn là thuê một cơ sở để thiết lập căn cứ.
Hoa Kỳ đã có nhiều căn cứ quân sự ở Thái Bình Dương như Yokosuka ở Nhật Bản, đảo Guam hay như ở Hawai. Và nhất là các tầu chiến của Mỹ có khả năng nhận tiếp tế trên biển.
Gần đây, vì những động thái ngày càng gây hấn của Trung Quốc, đe dọa chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam ở Biển Đông, VN và Mỹ đã có các cuộc đàm phán nhằm nâng mối quan hệ đối tác toàn diện lên thành thành quan hệ đối tác chiến lược.
Tuy nhiên, theo chuyên gia này, chính phủ Việt Nam sẽ vô cùng thận trọng trong việc áp dụng bất kỳ thay đổi nào đối với chính sách đối ngoại và quốc phòng dài hạn trong thời gian dẫn tới đại hội Đảng lần thứ 13, dự kiến diễn ra trong quý I năm 2021.
Ông nói căn cứ trên quá khứ, Việt Nam có nhiều khả năng tiếp tục chính sách “đa dạng hóa và đa phương hóa” trong các quan hệ với các cường quốc thế giới. Do đó, sẽ khó có chuyện Việt Nam liên kết với Mỹ để chống Trung Quốc.
GS Thayer nói điều này giải thích vì sao ông đi đến kết luận là “khó xảy ra chuyện Việt Nam cho Hoa Kỳ thuê cảng Cam Ranh” hay một đảo nào đó ở Biển Đông để làm căn cứ.
Mặc dù Trung Quốc ‘khó chịu’, sự xuất hiện của các tàu chiến, khu trục hạm, phi cơ oanh tạc chiến lược của Mỹ ở Biển Đông vẫn diễn ra như một tín hiệu mạnh.
Tin tức cho hay, Hoa Kỳ từ ngày 01/5 đã điều động bốn oanh tạc cơ B-1B cùng với 200 quân nhân từ căn cứ Không Quân Dyess ở Texas đến căn cứ Andersen, trên đảo Guam ở Thái Bình Dương.
Trong đó, ba oanh tạc cơ chiến lược B-1B của Mỹ đã bay thẳng đến căn cứ Guam trên Thái Bình Dương, phi cơ còn lại bay đến Nhật Bản nhằm tập huấn với hải quân của Hoa Kỳ tại khu vực.
Không lâu trước đó, hôm 30/04, hai oanh tạc cơ B-1B Lancer, có khả năng mang theo nhiều vũ khí hơn B-52, bao gồm bom dẫn đường JDAM và tên lửa hành trình chống hạm, xuất phát từ căn cứ Nam Dokota của Hoa Kỳ, đã có phi vụ bay diễn tập trong vòng 33 giờ với trọng tâm nhấn vào Biển Đông.
“Tôi nghĩ đây là một tín hiệu khá mạnh, so với trước đây Mỹ cũng có những hoạt động ấy, nhưng bây giờ tình hình hiện nay, đấy cũng thể hiện môt quyết tâm của Hoa Kỳ trong việc sẵn sàng ngăn cản các hoạt động phi pháp của Trung Quốc,” nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, TS. Trần Công Trục nói với BBC News Tiếng Việt hôm 04/5/2020.
Tiến sỹ Trần Công Trục nhắc lại nhận định của ông là Trung Quốc “muốn độc chiếm Biển Đông“.
“Nên rõ ràng sự có mặt của Hoa Kỳ và Úc, Ấn Độ chẳng hạn, thì họ rất không đồng ý, khó chịu.”
“Nhưng không thể nào vì thái độ đó mà các nước họ ngưng các hoạt động của mình để cho Trung Quốc muốn làm gì thì làm.”
Cũng từ Hà Nội, hôm thứ Hai, từ Viện Nghiên cứu Chính sách, Pháp luật và Phát triển, Viện trưởng Hoàng Ngọc Giao nói với BBC rằng diễn biến tàu hải quân và phi cơ Mỹ hoạt động ở Biển Đông vừa thể hiện ‘chính sách nhất quán’ của Mỹ, vừa là một tín hiệu ‘cảnh báo’:
“Việc mà Mỹ gần đây đã điều hai oanh tạc cơ chiến lược B1B Lancer đến vùng Biển Đông, bay từ lãnh thổ Mỹ với thời gian đến hơn 30 tiếng đồng hồ, thể hiện một chính sách nhất quán của Mỹ về việc đảm bảo tự do, an ninh, an toàn hàng hải, cũng như an ninh của chiến lược về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương rộng mở và tự do.”
“Nó khẳng định sự nhất quán về chính sách, cũng như quyết tâm của chính phủ Mỹ với đảm bảo duy trì hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực.
“Thứ hai, đây cũng là một động thái có thể hiểu như một sự cảnh báo đối với những hành động có tính chất hung hăng và khiêu khích ngày càng mạnh mẽ hơn từ phía Trung Quốc.”
“Chính phủ Mỹ đã rất kiên định, kiên quyết thực hiện đường lối đối ngoại và quốc phòng của mình để đảm bảo an ninh trong khu vực.”
Nhưng PGS. Hoàng Ngọc Giao không cho rằng động thái này có thể làm thay đổi các kế hoạch từ trước và tính toán hiện tại của Trung Quốc.
“Trung Quốc muốn thực hiện được cái gọi là lợi ích cốt lõi, tức là độc chiếm Biển Đông, cũng như đồng thời đe dọa độc lập của Đài Loan, đe dọa quyền tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông đối với các quốc gia.”
“Hiện nay Trung Quốc đang gặp rất nhiều khó khăn do dịch Cúm Vũ Hán, với ngày càng có nhiều chứng cứ về việc thiếu trách nhiệm của chính quyền Trung Quốc để lây lan rộng rãi đại dịch, và điều này càng làm Trung Quốc bị cô lập, càng làm cho nội bộ Trung Quốc có vấn đề.
“Do đó, họ muốn quấy động những vấn đề quốc tế để đánh lạc hướng dư luận, cũng như nhằm giải tỏa những mâu thuẫn, khó khăn ở trong nội bộ, nội địa Trung Quốc, và vì thế tôi không nghĩ là Trung Quốc sẽ chùn bước.
“Theo tôi, họ sẽ vẫn có thể tiếp tục những hành vi khiêu khích, bắt nạt và thậm chí sử dụng quân sự, hoặc dưới vỏ bọc, hay ‘mặt nạ’ gọi là dân sự, để thực hiện những hành vi vũ trang, cũng như đe dọa sử dụng vũ lực đối với các nước trong khu vực.”
Khi được hỏi, Việt Nam cần có hành động chính sách gì để tự vệ hoặc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình ở Biển Đông và khu vực trong hiện nay và tới đây, PGS. Hoàng Ngọc Giao đề cập chính sách ba không của Việt Nam.
“Việt Nam có chính sách ba không công bố như một chính sách chính thức trong Sách Trắng Quốc phòng của chính phủ Việt Nam, nhưng nếu hỏi là chính sách này có được nhân dân hưởng ứng và tán thành không, thì tôi nghĩ rằng là khó có chuyện đó.
“Bởi vì người dân rất là mong muốn, có thể là chưa liên minh ngay với Hoa Kỳ rồi các nước trong khu vực như là Úc, Nhật Bản, hay Ấn Độ, nhưng ít nhất cũng phải tăng cường hữu hiệu sự hợp tác về an ninh, quốc phòng.
“Thế nhưng chính sách ba không, Sách Trắng Quốc phòng của Việt Nam rõ ràng gây ra những thất vọng đối với rất nhiều người ở Việt Nam.”
“Động thái hợp tác về mặt quân sự đến nay còn rất lỏng lẻo, rời rạc, không phù hợp với tình hình nước sôi, lửa bỏng hiện nay là chủ quyền biển, đảo của Việt Nam đang bị Trung Quốc đe dọa một cách nghiêm trọng.” PGS. Hoàng Ngọc Giao đưa ra nhận định.
Nhà nước Việt Nam hiện nay đang nằm ở thế kẹt giữa một bên là ĐCS VN vẫn sử dụng ý thức hệ theo CNCS đầy lạc hậu, phụ thuộc và tương đồng với nhà nước Cộng sản Trung Quốc , mặt khác Chính phủ lại muốn mở rộng quan hệ đa phương, đặc biệt là với Mỹ , châu Âu và các nước Dân chủ, Tự do trên thế giới.
Nhà cầm quyền Trung Quốc gần đây đã lộ rõ bộ mặt bành trướng bá quyền, khi họ tiếp tục gửi Công hàm lên LHQ, tuyên bố chủ quyền tại quầnđào Hoàng Sa và Trường Sa, yêu cầu quân đội và người dân VN phải lập tức ra khỏi các vùng biển này.
Không còn con đường nào khác, đảng cộng sản phải thay đổi và chuẩn bị một lộ trình nhằm sớm chuyển đổi sang thể chế tự do, đa đảng như các nước văn minh, trả lại quyền làm chủ đất nước cho Nhân dân Việt Nam.
Hoàng Trung từ Hà nội – Thoibao.de (Tổng hợp)